Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Cosmos

Moderator
Bài làm

Là một trong những người viết thơ tình có sức hấp dẫn nhất trong thơ Việt Nam từ đầu thập kỉ 60 (của thế kỉ XX), Xuân Quỳnh chinh phục bạn đọc bằng một tiếng nói dung dị, chân thành vừa giàu trực cảm vừa lắng sâu trải nghiệm. Tình yêu qua ngòi bút Xuân Quỳnh in đậm dấu ấn một cái tôi phụ nữ nồng nàn, táo bạo mà vô cùng tha thiết, chân thành: "Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được một người - Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm - Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng..." (Thơ viết cho mình và cho những người con gái khác). Sóng thường được xem là bài thơ tình thuộc loại hay nhất của tác giả , ra đời năm 1967. Sóng cùng một số bài thơ về đề tài tình yêu của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt,... làm thành một mạch chảy thật ngọt ngào trong thơ ca kháng chiến hừng hực lửa chiến đấu. Nó cho thấy ý thức về cái tôi riêng tư bên cạnh cái ta cộng đồng, báo hiệu nhu cầu mở rộng quan niệm nghệ thụật về con người mà văn học từ sau năm 1975 sẽ coi là một trong những nội dung đổi mới có ý nghĩa quan thiết nhất.

Nhan đề bài thơ đã có ý nghĩa định hướng về một hình tượng xuyên suốt, do đó, người đọc dề bị ám ánh rằng nó chi có thể tìm đến thể thơ 5 chữ với cách ngắt nhịp biến hoá linh hoạt...

tho%20tho%20song.jpg


Thực ra, nhịp điệu của sóng có thể được diễn tả như Xuân Diệu từng làm, với thể thơ tự do, dào dạt và đầy tính tạo hình:

Anh không xứng là biển xanh

Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng

Bờ cát dài phẳng lặng

Soi ánh nắng pha lê...

Bờ đẹp đẽ cát vàng

Thoai thoải hàng thông đứng

Như lặng lẽ mơ màng

Suốt ngàn năm bên sóng...

(Biển - Xuân Diêu)

Nhưng quả đúng là thể ngũ ngôn rất thích hợp để bắt vào nhịp sóng. Chẳng hạn lục bát, bị ràng buộc bởi niêm luật và số chữ 6-8, nên có khi nói sóng tình lơi lả mà không "lơi lả" được từ hình thức câu thơ đến nhịp điệu:

Sóng tình dường đã xiêu xiêu

Xem trong âu yếm cố chiều lả lơi.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Nam Trân, một thi sĩ thơ mới, dù đã chuyển câu thơ từ thất ngôn sang lục bát cho mềm mại hơn, thì con sóng ông tạo ra vẫn là những con sóng khuôn khổ :

Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng

Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

Tôi xuống thuyền cô cô chẳng biết

Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo

Đám dăm mắt mỏi vì chèo

Thuyền cô còn quẫy sóng gieo giữa dòng

Biết không cô hỡi, biết không

Chèo cô còn quẩy sóng lòng còn xao.

(Huế, đẹp và thơ)

Cách gieo vần ở những câu lục bát đã mềm, có sức toả lan và đong đưa hơn so với thể thất ngôn bới tập trung nhiều âm mở, nhưng vẫn là ý niệm "sóng lòng".

Biển của Xuân Diệu có ý thức tạo hình sóng bằng lối điệp âm, gieo vần, nhưng đó là con sóng trong hình dung, mơ tưởng: "Anh xin làm sóng biếc".

Vậy, cái đặc sắc trong bài thơ của Xuân Quỳnh là gì ?

Chắc chắn không phải ở cách lấy sóng để nói chuyện tình yêu vì điêu này các cụ đã làm tự đời nào! Cũng không nhất thiết rằng tạo được một nhịp điệu sóng bằng thể thơ 5 chữ mà sự phân tích vể nhịp, gieo vần có thể được thực hiện dễ dàng (vì đây là một thể thơ dễ sử dụng, dễ biến hoá ; hơn nữa, cái mềm mại, tự nhiên, linh hoạt của nó đã được khai thác rất nhiều từ thời thơ mới như Tiếng thu - Lưu Trọng Lư, Chùa Hương - Nguyễn Nhược Pháp,...).

Có lẽ cái khác biệt đáng kể nhất ở đây là con sóng của Xuân Quỳnh được nhìn bằng nhãn quan phụ nữ và tác giả cũng là người mượn sóng để bộc bạch tình yêu của người phụ nữ thành công nhất : thi sĩ đã tạo hình một con sóng mang tính nữ. Cũng phải lưu ý điều này : Sóng được in trong tập Hoa dọc chiến hào, năm 1967 - thời điểm cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt và tình yêu lứa đôi thuần tuý chưa phải là đề tài phổ biến của thơ ca, nhất lại là tiếng nói của một cái tôi cá nhân đích thực, khao khát kiếm tìm bản thể và khẳng định phái tính. Gần như một "bông hoa lạ", Sóng ngay lập tức có được sức sống tự nhiên trong lòng bạn đọc.

Khổ thơ mở đầu rõ ràng không phải chỉ nhằm tạo hình tượng sóng (Xuân Diệu cũng làm điều này) mà hướng tới cắt nghĩa "bản thể sóng", cũng đồng thời là "bản thể tình yêu", là dòng nội tâm đầy xáo trộn của kẻ đang yêu :

Dữ dội và dịu êm

Ôn ào và lặng lẽ.

Đặc tính của sóng được Xuân Quỳnh khái quát thật giản dị mà cũng thật ấn tượng vì nó chứa đựng những nhận thức bất ngờ : bản thể sóng hoá ra gồm bao nhiêu đối cực, tưởng mâu thuẫn hoá ra thống nhất, luân chuyển không ngừng để mãi vẫn là mình. Giữa các đối cực, nhà thơ đặt một liên từ tinh tế : "và". "Và" chứ không phải "mà", bởi "dữ dội" không đối lập với "dịu êm", "ồn ào" không đối lập với "lặng lẽ", hơn nữa từ thái cực này, sóng luôn có thể chuyển sang thái cực khác. Những từ ngữ đặt ra ngoài văn cảnh là đối nghĩa, nhưng ở đây, lại là hai mặt của một thực thể, tạo hình con sóng sống động. Nhưng vì là con sóng nữ tính, nên nó không huỷ diệt, không đe doạ, càng không phải con sóng thần, mà là con sóng thơ, sóng yêu, cho nên nó đổ về bản năng người phụ nữ muôn đời. "Dịu êm", "lặng lẽ" là điểm rơi, điểm dừng của nhịp và cũng là của nhận thức. Trật tự từ ở hai câu ngỡ dẻ dans hoán dổi, thực ra lại không thể.

Tự sâu xa, sóng là một bản thể mang khát vọng:

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể.

Người ta tranh cãi khá nhiều xem "Sóng không hiểu nổi mình" hay "Sóng không hiểu nổi mình" hợp lí hơn. Thực chất, một văn bản thơ luôn có đặc tính của một văn bản đa nghĩa, mở ra nhiềụ cách đọc thú vị bất ngờ (bởi thế mới xuất hiện quan niệm : tác phẩm là một cuộc giao tiếp giữa văn bản và người đọc, tác phẩm như một quá trình). Với cách hiểu thứ nhất, sóng - mình – bể là một hành trình trăn trở tự bên trong, để tìm ngay đến cái rộng lớn. Nỗi trăn trở này dữ dội hơn, và ý chí mạnh mẽ bộc lộ từ "tham vọng" được hiểu. Hành trình sóng còn được quy chiếu vẻ bản chất riêng của thi sĩ, nghệ sĩ. Cách hiểu này bắt đầu từ chính việc tìm mình, đọc mình mà lên đường. Còn sông - sóng (mình) - bể lại là một "bộ ba", trong đó sóng tìm mình, đã phải qua những vấp váp, những ngăn trở, rồi vượt thoát giới hạn. Bộ ba quan hệ này chắc chắn sẽ tạo ý nghĩa mới cho hình tượng. Thực chất, bản thể sóng là không đối (dù ở sông, hay bể) nhưng nó cần một không gian thực - sự - là - mình để có thể bộc lộ được đầy đủ bản thể đó. Như vậy, sóng là bản thể, "sông", "bể" là những khách thể không gian để con sóng tự ứng chiếu mình. Hành trình tìm kiếm này không dẻ dàng (các động từ hiểu, tìm ra tận, cách phủ định không hiểu cho thấy một nội tâm nhiều thao thức , một ý thức dám trả giá cho hành động vượt không gian). Bao giờ sự tự ý thức về không gian tồn tại cũng kèm theo khát vọng phá vỡ nó, bứt thoát khỏi nó, cho dù có thể phải chấp nhận rạn nứt. "Sóng tìm ra tận bể" đã không chỉ là chuyện từ bỏ một không gian chật chội, tìm đến tình yêu rộng lớn, phóng khoáng mà còn là hành trình tìm được không gian đúng nhất với sự tồn tại của bản thể mình. Chuyện "sóng" ở đây dường như rộng hơn chuyện tình yêu. Nhưng cái ý gợi mở này được nói bằng giọng tự sự của tình yêu nên không hể lên gân, gượng gạo : tình yêu làm nảy sinh niềm da diết vể một không gian rộng lớn - nơi những quan hệ nhiêu chiều của cái tôi riêng tư cá thể được phát lộ và cái lớn lao đem lại cho nó ý thức sâu sắc hơn về mình.

Dù vậy, với tuổi trẻ, băn khoăn sâu thẳm nhất, dữ dội nhất về bản thể chẳng thể nào nằm ngoài khao khát tình yêu, thứ tình cảm kì lạ khiến mỗi cá nhân tự phá vỡ cái tôi của mình, nhập vào một cái tôi khác để được "là mình" trọn vẹn :

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Rõ ràng, chuyện "ngày xưa", "ngày sau" là chuyên vể bản thể, là ngọn nguồn và căn cốt của sự sống. Dòng chảy thời gian minh chứng cho sự vĩnh hằng của khát vọng tình yêu, của sóng. Con người, từ A-đam - E-va, đã khởi sinh bàng tình yêu, tồn tại bằng tình yêu, và mãi bồi hồi bởi hai tiếng đó, nhất là nỗi "bồi hồi trong ngực trẻ". Bản thể sóng bỗng nhập vào bản thể người khi nhân vật em bỗng nhận ra mình mang khát vọng tình yêu, nhưng đó là một hành trình chưa đến đích : mang trái tim yêu, con người bỗng dưng khao khát muốn nhận thức đầy đủ vể mình, về thế giới quanh mình, về giá trị của sự sống. Từ "sóng" có thể gợi ra nhiều biểu tượng khác nhau, trong đó con sóng - tình yêu chỉ là một quy ước quen thuộc, về khía cạnh này, Xuân Quỳnh không tạo nghĩa mới cho hình tượng sóng. Vậy phải chăng dùng hành trình sóng như hành trình nhận thức bán thể để đi đến một cách cắt nghĩa tình yêu mới là nét đặc sắc của nữ thi sĩ ?

Cảm xúc thơ làm xuất hiện một quan hệ tương chiếu : em - sóng. Từ khổ 3, em sẽ song hành cùng với sóng, không chỉ song hành vì tương hợp, mà có lúc em và sóng hoà nhập hoàn toàn. Trước không gian biển mênh mông rộng lớn, người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người ; kẻ tráng chí hùng tâm "Muốn vượt bể Đông theo cánh gió - Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi" (Phan Bội Châu) ; kẻ da cảm lại thấy "Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn" (Hữu Thỉnh) ; người ưa triết lí nghĩ về một "biển lớn cuộc đời sâu thẳm", muốn có anh và em "cắn chung hạt muối dời" - vừa là tình vừa là nghĩa (Vũ Quần Phương) ; ở một phương trời khác, Huy-gô xót xa cho những kiếp đời "trong đáy lạnh vùi tan" - cội nguồn cảm xúc vẫn là ám ảnh hư vô nhưng bi tráng. Xuân Quỳnh "trước muôn trùng sóng bể", nghĩ một cách cụ thể và giản dị : "Em nghĩ về anh, em" nhưng ý thơ không cạn hẹp mà mở ra vừa gần gũi, vừa vô tận bởi vì "anh - em" đã được tạo một quan hệ mới nhờ câu thơ tiếp theo : "Em nghĩ vẻ biển lớn - Từ nơi nào sóng lên ?". Câu hỏi "Từ nơi nào sóng lên ?" nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hoá ra bận bịu lòng người, vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể : Con người từ đâu đến ? Nó sẽ đi đến đâu ? Tinh yêu từ nơi nào đã lớn lên như vậy?

Cho nên, cắt nghĩa về tình yêu nghĩa là... không cắt nghĩa:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau.

Nếu có thể tìm ra được "gió bắt đầu từ đâu" thì cũng chỉ là tìm ra theo cách của khoa học tự nhiên. Còn các ngọn gió làm lan dậy- sóng tình lại khác. Chảng hạn ở câu ca dao : "Gió sao gió mát sau lưng - Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này" thì gió bắt đầu từ đâu ? Và như thế, thiên nhiên bí ẩn, cũng như tình yêu - thuộc tính người - bao giờ chả ẩn mật, khó dò : "Em cũng không biết nữa...". Cách cất nghĩa này không phải mới mẻ vì Xuân Quỳnh tiếp bước tiền nhân khẳng định quy luật "tình yêu là bí ẩn" (chựa nói đến việc người ta sẽ còn tìm mọi cách bí ẩn hoá nó lên nữa) mà điểm mới chính là ờ cách nói của một người phụ nữ đầy trực cảm và thành thật. Thử so sánh với Xuân Diệu chẳng hạn : vừa quả quyết "Làm sao cắt nghĩa dược tình yêu !" rồi lại tìm cách trả lời "thế là yêu" ("Có nghĩa gì đâu một buổi chiều - Nó chiếm hồn ta bằng nấng nhạt - Bàng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu" - "Vì sao ?") - nghĩa là cảm xúc Xuân Diệu bị chi phối bỡi lô gích duy lí. Xuân Quỳnh, bắt đầu từ quan sát tự nhiên (chuyện sóng, gió) rồi lắc đầu "Em cũng không biết nữa". Mấy chữ "cũng không", "nữa" chính là cách nói "rất con gái". Nếu làm theo cách lập luận của Xuân Diệu, thì Xuân Quỳnh phải đảo hai câu dưới lên trên, khổ thơ sẽ rất lí tính, tỉnh táo và thậm chí hơi...vô duyên nữa. Câu thơ cuối lơi ra những thanh bằng, mơ hồ như hơi thở nhẹ, tiếng buông hơi, nhưng ngầm ẩn một niềm hạnh phúc được cảm nhận tình yêu đang thì hiện tại.

Và vì thế mà ào ạt một con sóng yêu, một con sóng nhớ, sóng thức đầy khao khát muốn tràn dâng thân thể, và đúng là ở đây như có một "thân thể - sóng":

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.

Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, sống động nhất của bài thơ. Nó là khổ thơ không chỉ của (về) cảm xúc, mà đặc biệt hơn, nó tượng hình một thân thể sóng đang dạt dào hạnh phúc, cồn cào nỗi nhớ nhung và khao khát. Không gian "dưới lòng sâu", "trên mặt nước" mất đi tính khái quát, trở nên cụ thể, thân thiết như căn phòng hạnh phúc khi nó dẫn đến một liên tưởng ngẫu hứng đầy hữu lí : con sóng "không ngủ được". Đâu phải vì tiếng sóng mà biết con sóng thức! Phải là con sóng thao thức mà người phụ nữ thuở xưa.đã từng bộc bạch " Đêm nằm lưng chẳng bén giường - Trông cho tới sáng ra dường gặp anh" (ca dao). Hoàn toàn có thể tin con sóng "không ngủ được" là con sóng cuộn trào của cả tâm thể và thân thể, con sóng nhớ tràn ngày, đêm, tràn không gian, thời gian. Thơ tràn dòng theo nhịp hối thúc của nỗi nhớ. Những tương phản tạo một hình tượng sống động. Lối điệp từ cũng góp phần tạo hình con sóng xô bờ dào dạt. Em và sóng đến đây hoà làm một dổ rồi lại tách ra trong quan hệ song chiếu vừa tương đồng vừa khác biột : "Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức". Con sóng thức vì nhớ, còn em vì nhớ, thức cả trong những giấc mơ. "Sóng thức" vẫn còn lí tính. Nhưng "em mơ" đã là mộng mị, là tiềm thức, vô thức. Xuân Quỳnh nối dài đời sống bằng giấc mơ, và bằng cách đó, phá tan khoảng cách thực - mộng. Lí tính và phi lí hoà hợp nhau ở những chỗ như vậy, những cách nói như vậy, và nó dứng với bản chất của tình yêu. Trước kia, Nguyễn Du cũng đã diễn tả tuyệt hay trạng thái yêu mê say đắm "Chập chờn cơn tỉnh cơn mê" . Không phải sự táo bạo nào cũng chứng tỏ một tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính không thể thiếu mê say, cuồng nhiệt.

Sóng và em tương đồng, tương thích, vừa phản chiếu lẫn nhau vừa bồi đắp cho nhau. Mối quan hệ đó còn được biểu hiện cả trong cách nói, và nhất là sự gối trùng lên nhau cuồn cuộn. Chẳng hạn, từ khổ 1, con sóng còn đứng riêng như một thực thể, khổ 2 đã có giọng "em" ("ôi con sóng ngày xưa..."), có liên tưởng "ngực trẻ - ngực sóng" ; đến khổ 3 thì "em" ở thế chủ động, đối diện : "trước muôn trùng sóng bể". Hoá ra "sóng" chỉ là một cái cớ để em "nghĩ về anh, em", nhưng lại đồng thời phải nghĩ về "biển lớn", "sóng lên". Khổ 4 tiếp tục với những "tra vấn" "nghi vấn" về sóng : "Sóng bắt đầu từ gió - Gió bắt đầu từ đâu ?" nhưng rồi không sao tách được khỏi chuyện anh - em : "Khi nào ta yêu nhau". Khổ 5 : con sóng nhớ bờ không ngủ được cũng là em nhớ anh thức cả trong mơ.

Từ đầu đến càu "Cả trong mơ còn thức", từ ngữ, ý tưởng trùng điệp, ào ạt. Nếu muốn phân tách rõ ràng hoàn toàn có thể lập một bảng tương chiếu sóng - em (tần số xuất hiện, sự hoán đổi vị trí, chức nàng của từ ngữ, chẳng hạn có khi "sóng" là chủ từ, có khi "em" là chủ từ, "sóng" là bổ ngữ,...) sẽ thấy một hình tượng "sóng - em" quấn bện rất thú vị.

Mấy khổ thơ tiếp theo cho thấy một Xuân Quỳnh "già" hơn, triết lí hơn, thấp thoáng nét lo âu, và nếu xét ở sức tạo hình, gợi hình, ngôn từ thơ không dào dạt như những khổ đầu. Cũng bởi Xuân Quỳnh không chỉ là một phụ nữ hiện đại, mà còn mang đậm bản sắc phụ nư phương Đông, cho nên nhà thơ luôn quan niệm tình yêu gắn với lòng chung thuỷ :

Dầu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương.

Chuyện cùng nhau "lên bắc ngược nam", "lên thác xuống ghềnh" thì có từ thời... ca dao. Nhưng coi "anh" như cái la bàn trong hành trình xuôi ngược nhiều bất trắc, thì đó phải là một người gửi niềm tin trọn vẹn ở tình yêu. Hơn nữa, sự chung thuỷ này không đến từ "ý thức trách nhiệm", từ cái nghĩa vợ chồng, mà là một sự chung thuỷ của tình yêu, chung thuỷ đến cả từng ý nghĩ. Nếu "nghĩ" là trạng thái thường trực (cũng như "nhớ") thì "hướng về anh" giống như một xác tín.

Bởi vì nhìn vào sóng:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Để thấy sự thuỷ chung trọn vẹn.

Đó chính là niềm tin bồng bột, trong sáng và mãnh liệt của tuổi trẻ mà Xuân Quỳnh nhiều lần nhắc đến : "Tay ta nắm lấy tay người - Dẫu qua trăm núi nghìn đồi cũng qua",...

Nhưng sự nhạy cảm của người phụ nữ sẽ xui khiến ước vọng lớn lao luôn đi kèm những thoáng lo âu, huống chi bản tính Xuân Quỳnh vốn cả lo:

Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa.

Không phải lo về sự hữu hạn của tình yêu, mà ngại về cái mong manh, ngắn ngủi của đời người: cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Biển lớn nhưng còn những không gian lớn hơn biển. Hoá ra cả thời gian (cuộc đời) không gian (biển cả) vẫn cứ là hữu hạn so với khát vọng sống và yêu của con người. Làm sao để yêu nhau cho đủ ?

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa hiển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.

Đây là khát vọng đã có từ huyền thoại, khi nàng tiên cá gập bi kịch tình yêu thì tan thành bọt sóng để hoá thân vào vĩnh cửu.

Xuân Quỳnh hay bị ám ảnh vé thời gian, và cùng với nó, là ám ảnh về sự mất mát của tuổi trẻ, sự phôi pha của tình yêu: "Tôi đã biết thời gian rồi cũng hết - Hôm nay non mai cỏ sẽ già", " Tôi chẳng nói điều chi về vĩnh viễn", "Bao ngày tháng đi vể trên mái tóc - Chỉ em là đã khác với em thôi"). Trong nỗi lo âu mang tính người ấy, niềm tin vào tình yêu càng cháy bỏng. Yêu để "được tan ra", được thành trăm, thành ngàn con sóng, để vượt khỏi mọi giới hạn không gian, thời gian mà trường tồn cùng tình yêu... Khát vọng tan, đó là khát vọng vô hạn hoá cái mênh mông của nội tâm, bất tử hoá cái hữu hạn của thân thể. Tình yêu đi từ những ý nghĩ, những băn khoăn rồi thành hữu hình với những cảm xúc thân thể đến đây bỗng "siêu thăng" trở thành khát vọng chung của con người. "Tan" là hoà vào vĩnh cửu, cũng là một tình yêu vị tha bởi nó không đi cùng ý đồ chiếm hữu. Chính ở đây, nó tìm được sức mạnh. Đến khổ cuối này, cảm xúc thơ ào ạt trở lại, "sóng" và "em" đã không còn muốn tách chia để đối sánh mà "em" muốn "tan" thành sóng, và biển lớn đã là tình yêu, tan thành sóng cũng là tan trong tình yêu... Sau này, Vi Thuỳ Linh sẽ diễn đạt "bạo liệt" hơn, cá tính hơn "em yêu anh đến tan vào anh". Đó cũng là một sự hoà nhập trọn vẹn. Như vậy tình yêu luôn là khát vọng phá vỡ những giới hạn để kiếm tìm mối giao hoà tuyệt đối, khi mà nỗi khắc khoải, hoang mang vẫn còn đó ; càng khắc khoải, hoang mang càng tiết lộ tính chất đam mê của tình yêu (như Xuân Diêu diễn đạt "Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành - Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật", như chính Xuân Quỳnh tâm niệm "Biết yêu anh cả khi chết đi rồi").

Bài thơ Sóng khai triển hình tượng sóng trong sự tương ứng với em tạo thành một cấu trúc song song, nhưng suy cho cùng chính là một hành trình truy vấn bản thể : bán thể của cái tôi trữ tình trong khát vọng được bất tử hoá, vĩnh cửu hoá cùng tình yêu. Và nó cảm động sâu xa ở chỗ : hình như cái "nguyên tử" tạo thành con người chính là tình yêu, như câu thơ của Uýt-man : "từng nguyên tử của em cũng thuộc vể anh". Với ai mà từng "nguyên tử người" thuộc về tình yêu, kẻ đó sẽ là người hạnh phúc.

--St--
 

Huyền Trang VP

S.Moderator
Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.

Hướng dẫn:

I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là nhà thơ tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh có một bản sắc tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Đó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời, con người, khao khát tình yêu, trân trọng, nâng niu hạnh phúc bình dị đời thường.
- Thơ tình yêu là một mảng đặc sắc trong các sáng tác của Xuân Quỳnh. Đó là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Một trong những bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh là bài thơ Sóng.

II. Thân bài:

Khái quát chung:

Sóng là một hình tượng động, bất biến cũng như tình yêu muôn thuở / Có bao giờ đứng yên. Vì vậy, sóng được các nhà thơ chọn làm thi liệu để biểu tượng cho tình yêu. Nếu Xuân Diệu mượn sóng làm hình ảnh biểu tượng cho tình yêu:
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt.

Thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng là biểu tượng cho những cung bậc tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu nhiều khao khát và biến động. Hai hình tượng sóng và em luôn đi đôi sánh cặp với nhau. Sóng là em mà em cũng là sóng. Sóng và em hòa quyện vào nhau, có lúc khiến ta không nhận ra đâu là em đâu là sóng nhưng có lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau, tôn lên những vẻ đẹp vừa đa dạng lại vừa phong phú. Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Thể thơ năm chữ có tác dụng tạo ra những nhịp điệu của sóng. Cả bài thơ là một đại dương, mỗi khổ thơ là một con sóng lớn, mỗi câu thơ là một con sóng nhỏ. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng mênh mang, dào dạt của những con sóng lòng nhiều cung bậc.

Phân tích:

1. Hai khổ thơ đầu: Mượn sóng để diễn tả tâm hồn và khát vọng tình yêu

a. Khổ thơ đầu: nhà thơ mượn tính chất của sóng để nói về tâm hồn người phụ nữ đang yêu:

- Mở đầu bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh đã sử dụng nghệ thuật đối song hành để nói về tính chất của sóng, đem đến cho người đọc những khám phá thi vị:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
+ Sóng luôn tồn tại những trạng thái tưởng chừng như đối lập: Dữ dội – dịu êm; Ồn ào – lặng lẽ. Khi diễn tả tính chất của sóng, nhà thơ đã dùng từ và chứ không dùng từ mà. Và chỉ sự tồn tại bổ sung cho nhau. Nghệ thuật đối đã làm hiện lên vẻ đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố phong ba thì biển dữ dội ồn ào còn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền hòa trở về dịu êm, lặng lẽ.
+ Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên. Đúng như vậy, tình yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc họ yêu mãnh liệt hết mình với những nhớ nhung cả trong mơ còn thức, đôi khi ghen tuông giận hờn vô cớ:
Nếu phải cách xa nhau
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
(Thuyền và Biển)
Nhưng cũng có lúc người con gái lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ lặng lẽ, dịu êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:

Có những tình yêu không thể nói bằng lời
Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)

- Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ trẻ trung, tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Vì thế, ở hai câu thơ sau nhà thơ nói về khát vọng tự nhận thức của sóng:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

+ Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao.

Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không cam chịu một cuộc sống, đời sống chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại. Ngày xưa, vì quan niệm tình yêu cổ hủ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó mà bao cô gái đã phải cất lên lời than thân ai oán:
Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
Hoặc:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

+ Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh: Người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Người phụ nữ ấy chủ động tìm đến với tình yêu cao đẹp để hiểu mình, được sống là chính mình.

b. Khổ thơ thứ hai: Từ sự tồn tại vĩnh hằng của sóng, người phụ nữ đang yêu nhận thức về khát vọng tình yêu của con người, nhất là khát vọng tình yêu của tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

- Hai câu đầu: từ sự quan sát, suy ngẫm về sóng, nhân vật trữ tình bỗng nhận ra quy luật tồn tại của sóng:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế

- Từ Ôi cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ thuật đối lập ngày xưa – ngày sau càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng là thế muôn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ. Nghĩa là sóng tồn tại bất diệt với đại dương, biển vẫn ngàn năm cồn cào xáo động không ngừng nghỉ.

- Chính điều này khiến nhà thơ liên tưởng đến khát vọng tình yêu của con người:

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

- Mạch thơ chuyển đổi một cách bất ngờ từ thiên nhiên sang con người. Nếu sóng tồn tại bất diệt với đại dương thì tình yêu tồn tại bất diệt với con người, đặc biệt là người trẻ tuổi. Có nghĩa là tình yêu tồn tại vĩnh hằng. Nhà thơ nước Đức nổi tiếng Hen- rích Hai- nơ có tứ thơ dí dỏm nhưng rất sâu sắc khẳng định sự bất diệt của tình yêu:
Ta đem chôn tình yêu
Rồi trồng lên bia mộ
Lạy chúa thế là xong
Hai đứa thầm nói khẽ
Nhưng tình yêu vùng dậy
Trách móc nhìn chúng ta
Các ngươi nói gì vậy
Ta đang sống đây mà

Có lẽ vì thế mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu mới viết:
Hãy để cho trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu

Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi khát khao và nhung nhớ bởi Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào. Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn, những cồn cào da diết như lời thơ Xuân Quỳnh đã từng viết Những ngày không gặp nhau/Lòng thuyền đau rạn vỡ/ Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu mong nhớ. Tình yêu là điểm sáng vĩnh cửu cho con người hướng tới. Vì thế, cảm xúc bồi hồi trong ngực trẻ mãi là cảm xúc vĩnh hằng.
=> Hai khổ thơ đầu:
- Từ quy luật tự nhiên Xuân Quỳnh đã khám phá và biểu đạt một cách rất nghệ thuật quy luật tâm hồn của con người: khi yêu, tâm hồn con người đầy biến động, luôn khao khát tình yêu nhưng không bao giờ tự bằng lòng, luôn tìm cách lí giải tình yêu để tự hoàn thiện mình...
- Giọng thơ hồn nhiên pha lẫn suy tư. Ngôn từ chọn lọc: sử dụng nhiều từ láy: Dữ dội, ồn ào, lặng lẽ, bồi hồi; sử dụng thán từ ôi để bộc lộ cảm xúc. Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: tương phản đối lập, nhân hóa, ẩn dụ...

2. Hai khổ thơ 3 – 4: Qua sóng, tìm lời giải đáp cho câu hỏi khởi nguồn của tình yêu:

Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

- Đứng trước đại dương mênh mông, nhìn những con sóng biển xô bờ, Xuân Quỳnh liên tưởng đến tình yêu, bộc bạch tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Có lẽ, như vậy cũng không đủ để nhà thơ giãi bày khát vọng cho nên nữ thi sĩ đã bộc lộ trực tiếp qua nhân vật trữ tình em. Em được đặt trong sự đối diện với muôn trùng sóng bể, với cái vô biên của đất trời, của tình yêu.

- Khi đứng trước cõi vô biên, người ta thường hướng đến cái lớn lao. Đứng trước biển lớn, người phụ nữ đang yêu suy nghĩ về tình yêu lớn của mình và suy nghĩ về biển:

+ Cấu trúc em nghĩ về được điệp lại hai lần, thể hiện sự suy tư của nhân vật trữ tình. Người con gái ấy muốn cắt nghĩa nguồn gốc tình yêu của mình. Tình yêu là sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu. Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên.
+ Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu và bộc bạch một cách hồn nhiên, chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi muôn đời ấy trong tình yêu: Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau. Đây là một cách cắt nghĩa về tình yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa rất nữ tính, rất trực cảm. Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi Sóng bắt đầu từ gió nhưng để hiểu Gió bắt đầu từ đâu thì thi nhân lại ấp úng Em cũng không biết nữa. Cũng như tình yêu của anh và em, nó đến rất bất ngờ và tự nhiên. Câu thơ Em cũng không biết nữa như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Nhân vật trữ tình chợt nhận ra rằng: lí trí con người không bao giờ cắt nghĩa được sự huyền diệu và bí ẩn của tình yêu. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có khó gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu . Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và khám phá. Tình yêu là bài toán chưa có lời giải đáp, tình yêu như bài thơ chưa có hồi kết. Vì thế tình yêu luôn đẹp, luôn mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc đầu:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

=> Hai khổ thơ:
- Xuân Quỳnh đã phát hiện ra quy luật tình yêu bằng trực cảm và sự trải nghiệm trong
lòng mình. Quy luật ấy là: tình yêu cũng bí ẩn như sóng biển, như gió trời, không thể
cắt nghĩa được tình yêu.
- Giọng thơ tâm tình tha thiết. Sử dụng câu nghi vấn thể hiện những băn khoăn của nhân vật trữ tình. Điệp cấu trúc ở câu thơ thứ hai và câu thơ thứ ba của khổ thơ thứ ba ...

3. Khổ thơ thứ 5: nỗi nhớ trong tình yêu
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

- Trạng thái tình cảm thường trực trong tình yêu là nỗi nhớ. Xưa nay có tình yêu nào lại không được đo bằng nỗi nhớ? Người xưa từng chiêm nghiệm: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (Một ngày không gặp dài như ba năm). Đã có biết bao vần thơ viết về nỗi nhớ, nỗi tương tư:
+ Nỗi nhớ người yêu được diễn tả thật cảm động trong ca dao:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
(Ca dao)
+ Hơn một ngàn năm về trước, người vợ trong thơ Vương Xương Linh nhớ chồng đến hao gầy cả vành trăng:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vành sáng hao gầy đêm đêm.
+ Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng thao thức bao đêm vì nhớ nhung:

Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em

Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm hồn thi sĩ. Bài thơ Sóng ra đời khi những con sóng lòng dâng lên dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm. Bằng tình yêu mãnh liệt, chân thành, người con gái đang yêu muốn bộc bạch nỗi nhớ của mình:
+ Mượn hình ảnh sóng nhớ bờ để diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu của mình:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối dưới lòng sâu – trên mặt nước tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng cũng có con sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt hơn cả con sóng trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội, nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như sóng kia thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ sóng, có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù muôn vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo không ngủ được. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ nên con sóng đã hành trình vượt qua không gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất chấp cả thời gian Ngày đêm không ngủ được để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ. Nỗi nhớ của người con gái đang yêu cũng mãnh liệt như sóng nhớ bờ, nỗi nhớ sâu sắc đến mức choán đầy tầng sâu, lấp phủ bề rộng, lĩnh trọn cả thời gian...

+ Tuy nhiên, với Xuân Quỳnh, như thế vẫn chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ, nhà thơ đã trực tiếp thổ lộ:

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

. Xuân Quỳnh dùng chữ lòng rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con người. Nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói lòng em nhớ nghĩa là nữ sĩ đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc hết yêu thương mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lí Cả trong mơ còn thức.
. Câu thơ Cả trong mơ còn thức lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn nhịp sống bởi tình yêu luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống than nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc ngủ. Ta cảm nhận được nỗi nhớ người yêu đến da diết, cháy bỏng, nhớ đến kiệt cùng tâm linh: không chỉ ngự trị trong ý thức mà còn đi vào cả trạng thái vô thức. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bậc nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
=> Khổ thơ đã khẳng định:
- Xuân Quỳnh là nhà thơ luôn sống trong tình yêu, sống bằng tình yêu. Qua nỗi nhớ người đọc cảm nhận được tình yêu chân thành, tha thiết và sâu sắc của một người phụ nữ suốt đời dồn hết tâm lực để gìn giữ hạnh phúc đời thường...
- Giọng thơ vừa tha thiết vừa khắc khoải. Sáng tạo hình ảnh bờ để gián tiếp thể hiện nỗi nhớ. Sử dụng các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc cú pháp, đối lập, nhân hóa...

4. Khổ thơ thứ 6: khẳng định sự thủy chung trong tình yêu

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

- Nói về sự thủy chung thì đó là tứ thơ quen thuộc. Trong thơ truyền thống thường dùng những hình ảnh quen thuộc như thuyền, bến, còn ở đây Xuân Quỳnh lại mượn phương hướng đất trời để khẳng định lòng chung thủy thì có thể xem như là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Ở khổ thơ này, việc dùng hàng loạt những hình ảnh đối lập: xuôi - ngược, bắc - nam kết hợp với cách nói ngược đã tạo nên hiệu quả biểu đạt nội dung rõ nét. Bình thường, người ta nói ngược bắc, xuôi nam. Xuân Quỳnh nói ngược lại: xuôi về phương bắc, ngược về phương nam. Phải chăng sự cách xa trong tình yêu dù vì bất cứ lí do gì cũng là nghịch lí. Vì thế mà ngược thành xuôi, xuôi thành ngược. Hay vì trong trái tim người con gái, đất trời rộng lớn chỉ có duy nhất một phương – phương anh, nên dẫu bắc hay nam, xuôi hay ngược cũng đều không còn có ý nghĩa gì nữa. Xuân Quỳnh buộc chặt bao sợi nhớ, sợi thương về phương anh:

Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh

Thế mới biết tình yêu của Xuân Quỳnh nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch một phương thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Một nhà văn người Cô - lôm- bi - a từng đạt giải Nô- ben văn học đã nói: Con bướm phải mất 180 triệu năm mới có thể cất cánh lên được và loài người cũng mất ngần ấy năm mới biết khóc, biết cười cho tình yêu. Hóa ra, trong tình yêu có một thứ được gọi là văn hóa và biểu hiện của văn hóa trong tình yêu đó là phẩm chất thủy chung mà Xuân Quỳnh nói tới ở khổ thơ thứ sáu này. Sự thủy chung mà nữ thi sĩ khẳng định khiến người đọc nhận ra quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh mới mẻ, mạnh dạn nhưng rất truyền thống. Việc sử dụng các hình ảnh đối lập, cách nói ngược là sáng tạo dộc đáo của Xuân Quỳnh, làm cho câu thơ hàm súc, ý vị hơn, diễn tả thật sâu sắc nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu.

5. Khổ thơ thứ bảy: Niềm tin trong tình yêu
Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

- So sánh hành trình của những con sóng từ đại dương tới bờ, Xuân Quỳnh thấy vững tin hơn vào tình yêu của chính mình. Con sóng tình yêu của Xuân Quỳnh cũng như bao nhiêu con sóng khác, chắc chắn sẽ vượt qua muôn vời cách trở để đến được với bờ. Lúc ấy, sóng mới thôi thao thức.

- Ở khổ thơ này, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ một cách tinh tế. Nếu viết theo trật tự thường đó là:

Dù muôn vời cách trở
Con nào chẳng tới bờ

Nhưng Xuân Quỳnh lại chọn kết cấu đảo:

Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cách diễn đạt ấy khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh lo sợ, niềm tin mãnh liệt chân thành vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm dư vị đắng cay của sự nếm trải. Niềm tin, nghị lực, quyết tâm ấy của Xuân Quỳnh ta nghe như tiếng nói, sự đồng vọng của người xưa:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội
Thất bát đèo cũng qua

=> Khổ thơ thứ bảy:
- Thể hiện niềm tin mãnh liệt của Xuân Quỳnh vào tình yêu và hạnh phúc. Khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã hai mươi lăm tuổi, đã nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu, nhưng điều đáng trân trọng là người phụ nữ ấy vẫn không bao giờ hết tin tưởng vào tình yêu, bởi lẽ đó là một trái tim luôn yêu thương đến tận cùng cảm xúc.
- Giọng thơ tha thiết, tin tưởng. Biện pháp đảo ngữ...

6. Hai khổ thơ cuối: Cảm nhận về sự hữu hạn của đời người và khát vọng muốn hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu trường tồn mãi với thời gian:
- Khổ thơ thứ tám:

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những dự cảm và nỗi băn khoăn của nữ sĩ. Những từ tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến vói bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu.
- Khổ thơ cuối:
Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Khát vọng tình yêu thôi thúc nhà thơ vượt qua những giới hạn của đời người để bất tử hóa tình yêu:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

+ Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.
+ Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường: trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương Người yêu người, sống để yêu nhau (Tố Hữu). Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh? Đó không chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mĩ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu.

=> Trước Xuân Quỳnh, đã có không ít nhà thơ nữ viết về tình yêu nhưng hiếm có ai dám bày tỏ trực tiếp và mãnh liệt như Xuân Quỳnh. Điều đó chứng tỏ nhà thơ không chỉ có niềm tin vào cuộc đời mà còn vững tin ở chính mình. Con sóng Xuân Quỳnh dẫu có tan ra thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, giữa biển lớn cuộc đời thì vẫn cứ là con sóng Xuân Quỳnh vỗ mãi đến ngàn năm. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên, có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu...

Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:
- Thể thơ năm chữ với những câu thơ ngắn không ngắt nhịp rất phù hợp với việc miêu tả hình tượng sóng. Nhịp thơ êm đềm du dương mang âm hưởng của nhịp sóng thiên nhiên và nhịp điệu tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
- Về hình tượng:
+ Mượn hình tượng sóng để cất lên tiếng lòng của nhân vật trữ tình em, tạo mối liên hệ giữa sóng và em soi chiếu vào nhau để bộc lộ tình cảm, khát vọng của nhân vật trữ tình.
+ Qua hình tượng sóng, ta lắng nghe được những rung động, bồi hồi trong tâm hồn thi sĩ. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo cách đan cài giữa hai cặp hình tượng: sóng – bờ, em – anh.
- Về giọng điệu:
+ Giọng điệu tâm tình, trẻ trung, hồn nhiên, chân thật...
+ Giọng điệu thơ có lúc suy tư, có tính trải nghiệm, triết lí...
- Về ngôn ngữ: ngôn ngữ thơ bình dị với những so sánh liên tưởng gần gũi quen thuộc nhưng lại chứa đựng tình cảm mãnh liệt, nồng nàn, da diết.
- Về biện pháp tu từ: sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, đối lập, điệp từ, điệp cấu trúc câu...

III. Kết bài:

Qua bài thơ Sóng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo chủ động bày tỏ những khát khao và rung động trong tâm hồn. Những người đang yêu ngày trước, bây giờ và có thể cả mai sau sẽ tìm gặp được mình trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Sóng ra đời cách đây đã lâu nhưng dư ba và độ say nồng của nó vẫn còn mãi mãi. Nói như cách nói của một nhà phê bình thơ: Sóng mãi mãi còn nổi sóng và Xuân Quỳnh xứng đáng là nhà thơ nữ xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại.
 

DiễnđànKiếnthức .COM

  • Diễn đàn kiến thức Văn Sử Địa - Nơi mọi người có thể chia sẻ và thảo luận về văn, sử, địa nhằm nâng cao, mở mang kiến thức. .
Chat
Đăng nhập để sử dụng ChatBox
  1. Điền Chủ @ Điền Chủ:
    Shoutbox has been pruned!

Trang cá nhân

Văn bản Thạch Sanh​

Văn bản Thạch Sanh​

Kiến Thức Chủ đề Các dân tộc trên đất nước Việt Nam​

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.
Top