Kiến thức
- Kiến thức
+ Phân biệt giữa dữ liệu, thông tin và kiến thức trong ngữ cảnh hệ thống thông tin:
Dữ liệu là một tập hợp các sự kiện, độ đo, và thống kê.
Thông tin là dữ liệu đã được xử lý, và có tổ chức theo thời gian
(các suy luận trong khung thời gian có thể ứng dụng được) và chính xác (có tham khảo dữ liệu ban đầu).
Kiến thức là thông tin theo ngữ cảnh, thích hợp và có thể hành động được. Nghĩa là, kiến thức có các thành phần phản ánh và có kinh nghiệm, khác với thông tin theo ngữ cảnh.
Dữ liệu, thông tin và kiến thức
+ Trong khi xem dữ liệu, thông tin, kiến thức là các đánh giá của một tổ chức,thì kiến thức có ý nghĩa cao hơn dữ liệu và thông tin. Kiến thức truyền đạt ý nghĩa, do đó nó có xu hướng có giá trị hơn nhiều, nhưng cũng sớm chết.
+ So sánh giữa thông tin và kiến thức
- Các loại kiến thức và các thành phần kiến thức
+ Holsapple và Whinston (1996) định nghĩa 6 loại kiến thức:
Kiến thức miêu tả
(Descriptive knowledge) là thông tin về quá khứ, hiện tại, tương lai, hoặc các trạng thái giả thuyết thích hợp liên quan đến việc biết cái gì.
Kiến thức thủ tục (
Procedural knowledge) quan tâm đến việc biết như thế nào và đặc tả từng bước các thủ tục để cho các nhiệm vụ hoàn thành như thế nào.
Kiến thức lý do (
Reasoning knowledge) quan tâm đến việc biết tại sao, đánh giá các kết luận đúng đối với một tập hợp các tình huống.
Kiến thức trình bày (
Presentation knowledge) làm cho giao tiếp dễ dàng, liên quan đến phương pháp phân phối kiến thức.
Kiến thức ngôn ngữ (
Linguistic knowledge) diễn dịch giao tiếp một khi nó được nhận.
Kiến thức dễ tiêu hóa (
Assimilative knowledge) giúp duy trì cơ sở kiến thức bằng cách cải tiến kiến thức hiện tại.
Để hiểu như thế nào để hoạt động trên kiến thức, cần phân biệt các loại kiến thức. Ba loại kiến thức đầu là các kiến thức cơ bản, mà tổ chức có được trong thời gian thực hiện các quá trình kinh doanh. Ba loại kiến thức sau cung cấp sự giao tiếp, hiểu biết, và học kiến thức để sử dụng nó. Có nhiều phương pháp và phương tiện khác nhau để lưu trữ mỗi loại kiến thức, cũng như sử dụng nó.
+ Davenport và Prusak (
1998) định nghĩa kiến thức như là một sự hỗn hợp của kinh nghiệm, các giá trị, thông tin ngữ cảnh, và tầm nhìn chuyên gia, mà nó cung cấp công việc chính để đánh giá và xác nhập thông tin và các kinh nghiệm mới.
+ Clarke (
1998) định nghĩa kiến thức như là sự hiểu biết một cái gì làm việc như thế nào và tại sao.
+ Davenport et al. (
1998) định nghĩa kiến thức như là thông tin kết hợp với kinh nghiệm, ngữ cảnh, diễn dịch và phản ánh.
+ Clarke (1998) phân kiến thức thành 3 loại:
Kiến thức tiến bộ
(advantaged knowledge) là kiến thức cung cấp sự thuận lợi trong cạnh tranh.
Kiến thức cơ bản (
base knowledge) là kiến thức được tích hợp vào tổ chức, cung cấp các thuận lợi ngắn hạn (ví dụ, các thực tế tốt nhất).
Kiến thức vặt (
trivial knowledge) là kiến thức không có ảnh hưởng lớn đến tổ chức.
+ Ulrich (
1998) coi kiến thức như là vốn thông minh. Vốn thông minh là năng lực cá nhân và ràng buộc cá nhân đóng góp cho các mục tiêu của tổ chức (vốn thông minh = năng lực x ràng buộc).
+ Alavi và Leidner (1999) tin rằng kiến thức là niềm tin cá nhân tăng khả năng của cá nhân tham gia hành động. Các tác giả sử dụng ý tưởng của Churchman “Kiến thức ở trong người sử dụng và không ở trong tập hợp các thông tin”.
+ Gray (
1999): Hành động tham khảo đến các kỹ năng vật lý và năng lực, nhận thức hoặc hoạt động thông minh hoặc cả hai. Kiến thức là thông tin trong hành động.
+ Davenport và Prusak (
1998): Kiến thức được suy dẫn từ thông tin, còn thông tin được suy dẫn từ dữ liệu. Theo các tác giả, chuyển thông tin thành kiến thức thông qua quá trình so sánh, kết nối (
hiểu các quan hệ), đàm thoại (
không bao gồm những gì mà người khác suy nghĩ cùng thông tin), và các kết quả (
thông tin ảnh hưởng đến các quyết định như thế nào). Kiến thức phát triển theo thời gian cùng với kinh nghiệm, làm các kết nối giữa các biến cố và các tình huống mới trong ngữ cảnh. Kiến thức có thể được đặc tính bởi:
Tính trung thực nền tảng: Tính trung thực đạt được từ kinh nghiệm, không có lý thuyết, đây là các công việc gì trong thực tế.
Tính phức tạp: Các tình huống phức tạp chỉ ra các tiếp cận phức tạp để giải quyết các tình huống đó. Thỉnh thoảng, thiếu kiến thức làm cho vấn đề trở nên phức tạp.
Đánh giá: Đặt kiến thức vào ngữ cảnh có thể hành động. Kiến thức có liên quan và không bao giờ áp dụng lâu hơn cho một tình huống đã làm ban đầu.
Kinh nghiệm (luật ngón tay cái) và trực giác: Các hướng dẫn hành động, các cách làm tắt, các đơn giản hóa để giải quyết vấn đề.
Các giá trị và niềm tin: Những người khác nhau có các khung giải quyết vấn đề khác nhau.
- Kiến thức ngầm và kiến thức rõ ràng
+ Polanyi (
1958) đầu tiên khái niệm hóa và phân biệt giữa kiến thức rõ ràng và kiến thức ngầm của tổ chức.
Kiến thức ngầm(tacit knowledge) thường trong miền học theo kinh nghiệm, nhận thức, và chủ quan.
Kiến thức rõ ràng (
explicit knowledge) liên quan nhiều đến kiến thức kỹ thuật, lý do, và khách quan (dữ liệu, chính sách, thủ tục, phần mềm, tài liệu, …) và có tính cá nhân, khó chuẩn hóa (Nonaka và Takeuchi, 1995).
Kiến thức rõ ràng là các chính sách, hướng dẫn thủ tục, bài báo trắng (white papers), báo cáo, thiết kế, sản phẩm, chiến lược, mục tiêu, nhiệm vụ, và năng lực cốt lõi của xí nghiệp và cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông tin - Có thể mã hóa (lập tài liệu) kiến thức theo cách phân bố đến các người khác mà không yêu cầu tương tác giữa các cá nhân hoặc chuyển đổi thành quá trình hoặc chiến lược.
Kiến thức ngầm là kho tích lũy các kinh nghiệm, ánh xạ tinh thần, tầm nhìn, tính nhạy bén, biết như thế nào, các bí mật trong kinh doanh, tập hợp các kỹ năng, sự hiểu biết, và học hỏi mà tổ chức có, cũng như văn hóa tổ chức trong tổ chức gồm các kinh nghiệm trong quá khứ và hiện tại của con người, các quá trình và các giá trị.
+ Các tổ chức chỉ mới bắt đầu nhận dạng, phát triển, và triển khai các kỹ thuật và các phương pháp luận cụ thể để chuyển kiến thức ngầm thành kiến thức rõ ràng. Có thể mã hóa kiến thức: nắm bắt, lưu trữ, quản lý, dễ tiêu hóa, truyền, sử dụng, và được hành động bởi con người.
Học có tổ chức và bộ nhớ có tổ chức
- Học
+ Lane và Lubatkin (1998) nhận dạng 3 phương pháp học kiến thức mới bên ngoài:
Học thụ động: xảy ra khi xí nghiệp yêu cầu kiến thức kỹ thuật từ nhiều nguồn như huấn luyện, các cuộc hội thảo và các tạp chí.
Học chủ động: xảy ra khi xí nghiệp cải tiến các khả năng thông qua đánh giá và phân tích đối thủ cạnh tranh.
Học tương tác: yêu cầu tương tác gặp mặt nhau để phổ biến kiến thức ngầm. Các kho kiến thức có thể giải quyết các thiếu sót thông qua bản chất cộng tác.
+ Hackbarth và Grover (1999): Trong lịch sử, các tổ chức nào không thích hợp với các điều kiện kinh doanh thay đổi, thì các tổ chức đó sẽ thất bại. Vì thế, cách mạng bộ nhớ có tổ chức là quan trọng đối với công ty để thiết lập, phát triển, nuôi dưỡng tổ chức học, và để sống còn.
- Tổ chức học
+ DiBella (1995): Tổ chức học tham khảo đến khả năng học từ kinh nghiệm quá khứ của một tổ chức.
+ Garvin (1993): Trước khi công ty cải tiến, công ty phải học bằng cách xử lý 3 vấn đề quan trọng: (1) ý nghĩa (
xác định tầm nhìn một tổ chức học cái gì), (2) quản lý (
xác định xí nghiệp làm việc như thế nào), (3) độ đo (
đánh giá tỷ lệ và mức độ học hỏi). Tác giả định nghĩa tổ chức học theo 5 hoạt động chính:
Giải quyết vấn đề có hệ thống
Kinh nghiệm sáng tạo
Học từ kinh nghiệm trong quá khứ
Học từ các thực tế tốt nhất của các kinh nghiệm
Truyền đạt kiến thức nhanh và hiệu quả trong tổ chức
- Bộ nhớ có tổ chức
+ Tổ chức học hàm ý có một bộ nhớ có tổ chức và các phương tiện để lưu trữ, trình bày và chia sẽ kiến thức.
+ Hackbarth và Grover (1999) chia bộ nhớ có tổ chức thành 6 loại giếng (Vì các giếng là các nguồn nước được bổ sung theo cách rất tự nhiên và các cá nhân có thể uống từ các giếng này):
Các giếng cá nhân: Các giếng này chứa thông tin mỗi cá nhân theo dạng có ý nghĩa, bao gồm các báo cáo và các tập tin của mỗi cá nhân. Giếng thông tin: Giếng này chứa các hệ thống thông tin chuẩn, chứa dữ liệu, thông tin. Ví dụ, hệ thống thông tin quản lý MIS.
Giếng văn hóa: Schein (1997, 1999) miêu tả giếng này là các niềm tin; thông tin này có thể lan rộng trong tổ chức theo dạng rõ ràng hoặc ngầm.
Giếng chuyển dạng: Giếng này chứa các quá trình kinh doanh thường xảy ra.
Giếng cấu trúc: Giếng này chứa thông tin về cấu trúc tổ chức, kể cả dạng chuẩn và dạng không chuẩn.
Giếng sinh thái học: Giếng này là cấu trúc vật lý của tổ chức.
+ Trí thông minh của con người xuất phát từ các giếng này và có thêm giá trị bằng cách tạo kiến thức mới. Hệ thống quản lý kiến thức có thể nắm bắt kiến thức mới và chuyển kiến thức thành một dạng cải tiến hơn bằng cách bỏ kiến thức đó trở lại một giếng thích hợp.
- Học có tổ chức
+ Học có tổ chức là phát triển các tầm nhìn và kiến thức mới, có tiềm ẩn ảnh hưởng đến hành vi. Học có tổ chức xảy ra khi các thành viên của tổ chức chia sẽ các kết hợp, các hệ thống nhận thức, và bộ nhớ (Croasdell et al., 1997). Thiết lập bộ nhớ kết hợp là điều quan trọng để thành công (Brooking, 1999; Hardbarth và Grover, 1999). Kỹ thuật thông tin đóng vai trò quan trọng trong việc học có tổ chức, và quản lý phải tập trung vào lĩnh vực này để nuôi dưỡng kỹ thuật thông tin (Andreu và Ciborra, 1996). + Nevis et al. (1995) miêu tả quá trình học có tổ chức theo 3 bước: (1) thu nhận kiến thức, (2) chia sẽ kiến thức, (3) tận dụng kiến thức. Và 7 hướng học, hướng là cách thức xí nghiệp học. Mỗi hướng yêu cầu các kỹ thuật và các phương pháp khác nhau, nhằm cải tiến việc học hỏi, do đó, tổ chức có thể cải tiến việc học có tổ chức bằng cách tập trung vào lĩnh vực đó. Sau đây là các hướng:
Nguồn kiến thức: Nguồn kiến thức có thể bên trong hoặc bên ngoài.
Tập trung sản phẩm-quá trình: Chrysler tập trung vào quá trình, đặc biệt là các lĩnh vực chức năng, và chuyển sang một quá trình tập trung đến dạng tiếp cận nền tảng.
Chế độ tài liệu: Quan tâm như thế nào để lưu trữ và duy trì kiến thức trên giấy, các hệ chuyên gia, các cơ sở dữ liệu, … theo dạng chuẩn hoặc không chuẩn.
Chế độ phổ biến: Việc học có thể cải tiến từ quan điểm nguồn gốc hoặc từ chỉ thị phía trên. Có thể có cấu trúc hoặc không có cấu trúc. Tập trung học: Tập trung học chính quy vào những gì đang làm hiện tại hoặc như thế nào để làm, do đó tạo ra các phương pháp hoặc các nguyên tắc chung.
Tập trung chuỗi giá trị: Quan tâm đến các năng lực chính cụ thể và học các đầu tư mà xí nghiệp có.
Tập trung phát triển kỹ năng: Các tổ chức có thể tập trung vào các cá nhân hoặc các nhóm.
+ Các nhân tố thuận tiện cho việc học có tổ chức là sự khẩn thiết xem qua, khoảng cách hiệu suất, quan tâm đến độ đo, tập hợp trí nhớ có kinh nghiệm, không khí mở, giáo dục liên tục, sự đa dạng về hoạt động, nhiều người ủng hộ, người đứng đầu có liên quan, quan điểm các hệ thống. Cải tiến việc học hỏi bằng cách tập trung vào các nhân tố thuận tiện để cải tiến môi trường và bằng cách nhận dạng và nuôi dưỡng các hướng học phù hợp với văn hóa tổ chức. Bộ nhớ và học có tổ chức phụ thuộc ít vào kỹ thuật, nhưng lại phụ thuộc nhiều vào các vấn đề có liên quan đến con người.
- Văn hóa tổ chức
+ Khả năng một tổ chức học, phát triển bộ nhớ, và chia sẽ kiến thức đều phụ thuộc vào văn hóa của tổ chức. Văn hóa là một mẫu các giả sử cơ bản dùng chung (Schein, 1997, 1999). Theo thời gian, các tổ chức học làm gì và không làm gì. Khi các bài học trở nên tự nhiên, thì chúng trở thành một phần của văn hóa tổ chức. Các nhân viên mới học văn hóa từ các người cố vấn kèm với việc hiểu biết như thế nào (know-how).
+ Khó đo được ảnh hưởng của nền văn hóa kết hợp đến tổ chức. Tuy nhiên, nền văn hóa mạnh sẽ tạo các kết quả: lợi nhuận ròng, hoàn vốn đầu tư, giá cổ phần tăng hàng năm (Hibbard, 1998).
+ Chìa khóa thành công là tạo cho xí nghiệp một nền văn hóa thay đổi liên tục mà không ảnh hưởng đến các nhân viên, nhưng khuyến khích nhân viên vì họ tin rằng sự thay đổi này có thể cải thiện chất lượng cuộc sống. Nói chung, thành công quản lý kiến thức phụ thuộc vào các vấn đề văn hóa như các hoạt động quản lý, không phụ thuộc vào kỹ thuật.
Quản lý kiến thức
- Quản lý kiến thức
+ Quản lý kiến thức qua thông tin, cộng tác, và các kỹ thuật, là sự chuẩn hóaviệc học hỏi và bộ nhớ có tổ chức thành tài nguyên sẵn sàng, thường thông qua kho kiến thức. Quản lý kiến thức là quản lý kiến thức kết hợp và tài sản trí tuệ, có thể cải tiến các đặc tính hiệu suất tổ chức và thêm giá trị cho xí nghiệp để xí nghiệp hành động thông minh hơn. Quản lý kiến thức có thể làm cho giao tiếp kiến thức từ người này sang người khác để người khác có thể sử dụng kiến thức đó. 10 miền kiến thức tạo đòn bẩy trong tổ chức thông qua các bước khởi đầu kiến thức là:
Chia sẽ kiến thức và các thực tế tốt nhất
Làm cho thấm dần trách nhiệm chia sẽ kiến thức
Nắm bắt và sử dụng lại các thực tế tốt nhất
Nhúng kiến thức vào sản phẩm, dịch vụ, và quá trình
Tạo kiến thức như là một sản phẩm
Suy dẫn thế hệ kiến thức để đổi mới
Ánh xạ các mạng chuyên gia
Xây dựng và khai phá cơ sở kiến thức khách hàng
Hiểu và đo giá trị kiến thức
Tạo đòn bẩy các tài sản trí tuệ
+ Không có một định nghĩa có thể chấp nhận cho kiến thức, vì bản chất kiến thức là rộng. Quản lý kiến thức là một tập hợp các quá trình truyền đạt vốn trí tuệ ở dạng kiến thức ngầm ở cá nhân, nhóm cục bộ trong tổ chức, và các văn phòng chi nhánh phân bố thành giá trị các quá trình dẫn đến đổi mới, tạo kiến thức, và bổ sung năng lực cạnh tranh cho tổ chức. Quản lý kiến thức có thể xem như nghệ thuật chuyển thông tin và tài sản trí tuệ thành giá trị lâu dài cho khách hàng và con người.
+ Quản lý kiến thức là quá trình suy luận, chuyển dạng, lan truyền kiến thức trong xí nghiệp để chia sẽ và sử dụng lại kiến thức. Quản lý kiến thức giúp các tổ chức tìm kiếm, chọn lựa, tổ chức, phổ biến và truyền đạt thông tin quan trọng và điều cần thiết thông minh cho các hoạt động như giải quyết vấn đề, học động, hoạch định chiến lược, và ra quyết định (Gupta et al., 1999, 2000). Quản lý kiến thức chuyển dữ liệu hoặc/và thông tin thành kiến thức có thể hành động theo một dạng được sử dụng hiệu quả và hữu hiệu trong xí nghiệp (Angus et al., 1998; Davis, 1998; Davenport et al., 1998; Leary, 1998; Skyrme, 1999).
+ Quản lý kiến thức là một tập hợp các quá trình chuyển các tài sản trí óc của xí nghiệp thành giá trị các quá trình như sự đổi mới và kiến thức hữu ích; hay quản lý kiến thức là làm cho kiến thức dùng chung trở nên hữu ích.
- Mục tiêu ngắn hạn và dài hạn của việc quản lý kiến thức
+ Davis (1998): Quản lý kiến thức liên quan đến ràng buộc chiến lược để cải tiến hiệu quả của tổ chức, và cải tiến cơ hội. Mục tiêu không phải điều khiển chi phí. Mục tiêu quản lý kiến thức như là một quá trình cải tiến khả năng của tổ chức nhằm thực thi các quá trình chính hiệu quả hơn. + Davenport et al. (1998) miêu tả 4 mục tiêu lớn của các hệ thống quản lý kiến thức trong thực tế:
Tạo kho kiến thức
Cải tiến truy xuất kiến thức
Cải tiến môi trường kiến thức (nhiều xí nghiệp xem là mục tiêu chính)
Quản lý kiến thức như một tài sản
+ Chìa khóa để quản lý kiến thức là nắm bắt các tài sản trí tuệ cho lợi ích hữu hình của tổ chức. Các nhu cầu quản lý kiến thức là để:
Chuyển dạng kiến thức để thêm giá trị vào các quá trình và các hoạt động kinh doanh
Tạo đòn bẩy kiến thức có chiến lược kinh doanh nhằm tăng sự phát triển và đổi mới
Sử dụng kiến thức nhằm cung cấp thuận lợi cạnh tranh trong kinh doanh
+ Các quá trình của hệ thống quản lý kiến thức để quản lý: Việc tạo ra kiến thức thông qua học hỏi
Nắm bắt và kiến thức
Chia sẽ kiến thức và giao tiếp thông qua cộng tác
Truy xuất kiến thức
Sử dụng và sử dụng lại kiến thức
Lưu trữ kiến thức
- Các điều cơ bản về ý niệm của việc quản lý kiến thức
+ Quản lý kiến thức bắt nguồn từ các khái niệm học có tổ chức và bộ nhớ có tổ chức. Khi các thành viên của tổ chức cộng tác và giao tiếp ý tưởng, dạy, và học, kiến thức được chuyển dạng và truyền đạt từ cá nhân này sang cá nhân khác. Người quản lý nhận ra rằng khi học có tổ chức xảy ra, và khi các người quản lý hỗ trợ việc học, học có tổ chức ảnh hưởng tích cực đến tuyến dưới. Hiện đại hóa các khái niệm học bằng kỹ thuật. Các câu chuyện thành công thực sự của việc quản lý kiến thức chứng minh rằng: cùng với việc hỗ trợ nền văn hóa tổ chức, sử dụng kỹ thuật nhằm cải tiến việc học có tổ chức và quản lý kiến thức (O’Dell at al., 1998).
- Kho kiến thức
+ Kho kiến thức là tập hợp các kiến thức bên trong và bên ngoài. Kho kiến thức không chuẩn tìm kiếm để nắm bắt các kiến thức ngầm ở trong tâm trí của các chuyên gia trong tổ chức, nhưng kiến thức đó không ở dạng có cấu trúc. Kiến thức rõ ràng thường được nắm bắt ở một dạng nào đó dựa vào định nghĩa; nhưng thỉnh thoảng kiến thức rõ ràng cũng phải được lọc lại, tổ chức và lưu trữ vào kho kiến thức trung tâm, để làm cho kiến thức hiệu quả và hữu hiệu.
+ Mục tiêu của kho kiến thức là nắm bắt thông tin. Cấu trúc của kho kiến thức
phụ thuộc nhiều vào loại kiến thức được lưu trữ. Kho kiến thức có thể sắp xếp từ dạng danh sách các câu hỏi và giải pháp, cho đến danh sách các cá nhân có thông tin liên lạc và chuyên môn, cho đến các thực tế tốt nhất ở dạng chi tiết cho một tổ chức lớn.
+ Tiếp cận Chevron nhận ra 4 mức thực tế tốt nhất:
Ý tưởng tốt tuy chưa được chứng minh, nhưng ý tưởng đó tạo cảm giác trực quan
Thực tế tốt, kỹ thuật hiện thực, phương pháp luận, thủ tục hoặc quá trình cải tiến các kết quả kinh doanh
Thực tế tốt nhất cục bộ, tiếp cận tốt nhất cho tất cả hoặc một phần lớn tổ chức dựa vào việc phân tích dữ liệu cứng
Thực tế công nghệ tốt nhất, tương tự mục 3 nhưng sử dụng dữ liệu cứng từ công nghệ
+ Davenport et al. (1998) miêu tả 3 loại kho cơ bản trong thực tế:
Kiến thức bên ngoài, như trí tuệ cạnh tranh, thường cần các giải thích vàdiễn dịch.
Kiến thức có cấu trúc bên trong, như các báo cáo nghiên cứu, các trình bày, và các tài liệu tiếp thị. Kiến thức này hầu như là kiến thức rõ ràng và một ít kiến thức ngầm.
Kiến thức không chuẩn bên trong, như các cơ sở dữ liệu thảo luận, trợ giúp các kho kiến thức và các cơ sở dữ liệu thông tin dùng chung. Kiến thức này là kiến thức ngầm trong tâm trí con người và có thể trao đổi qua các kỹ thuật cộng tác, các cuộc họp gặp mặt nhau, hoặc các hệ thống quản lý kiến thức chuẩn.
- Các hoạt động quản lý kiến thức
+ Quản lý kiến thức gồm 4 chức năng cơ bản:
Bên ngoài hóa là nắm bắt kiến thức ở kho bên ngoài và tổ chức kiến thức theo công việc chính nào đó nhằm nổ lực khám phá kiến thức tương tự. Các kỹ thuật hỗ trợ bên ngoài hóa là: các hệ thống xử lý ảnh, các cơ sở dữ liệu, các kỹ thuật dòng làm việc, các hệ thống quản lý tài liệu sử dụng kỹ thuật phân nhóm, …
Bên trong hóa là quá trình nhận dạng kiến thức rõ ràng, thích hợp với các nhu cầu của người sử dụng cụ thể. Quá trình này liên quan đến việc ánh xạ một vấn đề cụ thể, tình huống, hoặc điểm sở thích so với điểm chính của kiến thức đã được nắm bắt thông qua bên ngoài hóa. Trung gian tương tự như quá trình môi giới để cho phù hợp người tìm kiến thức với nguồn kiến thức tốt nhất (thường ngầm) bằng cách dò theo kinh nghiệm và sở thích của cá nhân và nhóm cá nhân. Một số kỹ thuật làm cho quá trình này dễ dàng là groupware, intranet, dòng làm việc, và các hệ thống quản lý tài liệu.
Nhận thức áp dụng kiến thức được trao đổi bằng 3 quá trình trước. Đây là thành phần quản lý kiến thức hầu như khó tự động nhất, vì nó nằm trong nhận thức của con người để nhận ra kiến thức được sử dụng ở đâu và được sử dụng như thế nào. Một vài kỹ thuật có thể hỗ trợ nhận thức. + Hệ thống quản lý kiến thức trong tổ chức bao gồm các đặc điểm:
Tạo nền văn hóa kiến thức
Nắm bắt kiến thức
Phát sinh kiến thức
Giải thích (và số hóa) kiến thức
Chia sẽ và sử dụng lại kiến thức
Tái sinh kiến thức
+ Quá trình quản lý kiến thức phải có một phương pháp luận để xác định kiến thức giải nghĩa có ở dạng miễn phí không (hay dùng chung cho mọi người, độc lập cá nhân hay nhóm đóng góp kiến thức đó, …).
+ Truy xuất kiến thức phụ thuộc vào các nhân tố sau:
Mức độ hiếm có xác định sự thích hợp của kiến thức đối với người nhận
Mức độ phức tạp xác định quá trình truyền đạt kiến thức cho người nhận
Mức độ nỗ lực được chi bởi người chủ yêu cầu kiến thức nơi đầu tiên xác định sự sẵn sàng chia sẽ kiến thức với người nhận.
- Mô hình theo chu kỳ của việc quản lý kiến thức
+ Hệ thống quản lý kiến thức gồm 6 bước:
Tạo kiến thức: Tạo kiến thức khi con người xác định các cách mới để làm điều gì đó hoặc phát triển hiểu biết như thế nào (know-how). Thỉnh thoảng đưa vào kiến thức bên ngoài.
Nắm bắt kiến thức: Phải nhận dạng giá trị của kiến thức mới và trình bày theo cách thức hợp lý.
Tinh chế kiến thức: Phải đặt kiến thức mới trong ngữ cảnh để có thể hành động. Phải nắm bắt tầm nhìn của con người (chất lượng ngầm) kèm với các sự kiện rõ ràng.
Lưu trữ kiến thức: Phải lưu trữ kiến thức hữu ích ở dạng hợp lý trong kho kiến thức, để người khác trong tổ chức có thể sử dụng kiến thức. Quản lý kiến thức: Giống như thư viện, hiện tại phải giữ kiến thức. Phải xem xét kiến thức để kiểm tra kiến thức thích hợp và chính xác.Phổ biến kiến thức: Kiến thức phải sẵn sàng ở dạng hữu ích cho bất cứ người nào trong tổ chức khi cần ở bất cứ nơi nào và bất cứ lúc nào.Lý do của chu kỳ là kiến thức được tinh chế theo thời gian, và động. Hệ thống quản lý kiến thức tốt không bao giờ hoàn thành, vì theo thời gian, môi trường thay đổi và kiến thức phải được cập nhật để phản ánh với các thay đổi.
+ Khi phổ biến kiến thức, các cá nhân phát triển, tạo, nhận dạng kiến thức mới hoặc cập nhật kiến thức cũ và đưa trở lại hệ thống.
+ Vì kiến thức là tài nguyên không bị tiêu thụ khi sử dụng, nên kiến thức được sử dụng mãi mãi khi cần thiết. Kiến thức không bao giờ suy yếu, mặc dù kiến thức có thể già cõi. Kiến thức phải được cập nhật. Do đó, kho kiến thức phát triển theo thời gian.
- Những bước đầu quản lý kiến thức
+ Các tổ chức nhận ra giá trị đầy đủ của các tài sản kiến thức chỉ khi tài sản này được truyền đạt hiệu quả giữa các cá nhân. Các tổ chức sử dụng 4 quá trình phổ biến để chuyển đổi kiến thức:
Xã hội hóa: chia sẽ kinh nghiệm thông qua quan sát, bắt chước, và thực tế; thường xảy ra ở nơi làm việc, hội thảo, học nghề, và hội nghị. Nắm bắt: chuyển kiến thức ngầm (ví dụ, người ta học cái gì ở nơi làm việc) thành dạng rõ ràng (ví dụ, các báo cáo).
Phổ biến: sao chép và phân bố kiến thức rõ ràng.
Quốc tế hóa: các kiến thức có kinh nghiệm thông qua một nguồn rõ ràng ví dụ, một người có thể kết hợp kinh nghiệm đọc báo cáo ở nơi làm việc với các kinh nghiệm trước.
+ Kiến trúc quản lý kiến thức (KMA, knowledge management architecture) của Nonaka và Takeuchi (1995): mô hình 3 xoắn óc 3 bước có đặc điểm ánh xạ học nhận dạng các câu hỏi được trả lời và các quyết định được ra, ánh xạ thông tin đặc tả loại thông tin mà người sử dụng cần, và ánh xạ kiến thức giải thích người sử dụng làm gì với các thông tin cụ thể. Ánh xạ kiến thức trình bày sự chuyển đổi thông tin sang tầm nhìn hoặc kiến thức. + Một khi phát triển 3 ánh xạ, thực hiện đánh giá điểm cân bằng để đánh giá loại công cụ IT nào hiệu quả tạo lực đòn bẩy cho các kho thông tin, và tạo ra ánh xạ kỹ thuật thông tin. Monsanto tập trung vào khả năng tạo cảm giác cho con người (sense-making).
- Tại sao các xí nghiệp chấp nhận việc quản lý kiến thức? 5 lý do
+ Ra quyết định tốt hơn
+ Giảm các chi phí
+ Thời gian đáp ứng các vấn đề chính nhanh hơn
+ Cải tiến hiệu suất
+ Chia sẽ các thực tế tốt hơn